17/11/2025
Sân khấu truyền thống loay hoay với bài toán bảo tồn Nghệ thuật chèo trên sân khấu

Sân khấu truyền thống loay hoay với bài toán bảo tồn

Có một thực tế đáng buồn của sân khấu truyền thống hiện nay, đó là các đoàn nghệ thuật địa phương hoạt động cầm chừng vì không còn khán giả để phục vụ. Các chương trình truyền hình hay sân khấu cải lương, chèo, tuồng hiếm khi xuất hiện trên sóng giờ vàng thay vào đó là gameshow, nhạc trẻ, và các chương trình giải trí nhanh. Nguy cơ sân khấu truyền thống bị nghiệp dư hóa và “bay mầu” trong thời đại mới là không thể tránh khỏi.

Nghệ thuật truyền thống Việt Nam với những bộ môn như tuồng, chèo, cải lương không chỉ là nơi thể hiện tài năng biểu diễn của nghệ sĩ mà còn là kết tinh bản sắc văn hóa dân tộc. Những làn điệu chèo, những lớp tuồng bi hùng, những câu vọng cổ da diết từng chạm sâu vào trái tim bao thế hệ khán giả Việt.

Thế nhưng, giữa nhịp sống hối hả của thời đại công nghệ và giải trí số, những giá trị ấy đang dần trở nên xa vời. Các buổi biểu diễn của sân khấu truyền thống hiếm khi lấp đầy khán giả, người trẻ ít biết, ít hiểu, thậm chí thờ ơ với một di sản từng là linh hồn của văn hóa dân tộc.

Đáng lo hơn, trong nỗ lực đưa truyền thống đến gần công chúng, nhiều biểu hiện nghiệp dư hóa đã xuất hiện khi nghệ thuật truyền thống bị pha tạp, làm mất đi chiều sâu nghệ thuật và tinh thần nguyên bản. Nhiều tiết mục mang danh “truyền thống” được trình diễn trong lễ hội, sự kiện, hay trên mạng xã hội chỉ còn giữ phần “vỏ”: trang phục, động tác, vài câu hát quen thuộc, còn phần “hồn” tức kỹ thuật biểu diễn, ngôn ngữ sân khấu, chiều sâu nội dung thì gần như bị bỏ quên. Người biểu diễn đôi khi không hiểu ý nghĩa của từng động tác, từng làn điệu, người xem thì chỉ xem cho vui, không cảm thụ được giá trị nghệ thuật ẩn trong từng vai diễn.

Sự “bay màu” của nghệ thuật truyền thống không chỉ nằm ở thiếu vắng khán giả. Nghệ thuật truyền thống đang lạc nhịp với thời đại. Trong khi sân khấu truyền thống vốn chậm rãi, đòi hỏi sự cảm thụ tinh tế… nên khó lòng đáp ứng thị hiếu công chúng thời đại số, khi con người quen với tốc độ, sự tiện lợi và giải trí tức thời. Vì vậy, nhiều bạn trẻ có thể thuộc lòng hàng trăm bài hát K-pop, nhưng lại không biết phân biệt giữa tuồng và chèo, hay chưa từng nghe trọn vẹn một bài vọng cổ.

Khi nghệ thuật bị đẩy ra ngoài đời sống tinh thần, nó dần mất đi không chỉ khán giả mà còn mất luôn vị trí trong tâm thức dân tộc. Trong khi đó, công tác truyền thông và quảng bá còn yếu. Khi các nền tảng số như YouTube, TikTok, Netflix chiếm lĩnh đời sống văn hóa, nghệ thuật truyền thống vẫn loay hoay với mô hình biểu diễn cũ, chưa tìm được cách để kể chuyện mới mẻ, hấp dẫn. Hệ quả là khoảng cách giữa nghệ thuật truyền thống và công chúng hiện đại ngày càng xa, khiến những giá trị tinh hoa đứng trước nguy cơ bị hiểu sai, bị giản lược, hoặc bị thay thế hoàn toàn.

Bên cạnh đó, sự thiếu đầu tư và chiến lược bảo tồn chưa phù hợp khiến các loại hình nghệ thuật này khó cạnh tranh. Việc đào tạo nghệ sĩ trẻ không còn được chú trọng như trước; không những thế thu nhập thấp khiến nhiều người không dám theo nghề. Một số đoàn nghệ thuật phải tự xoay sở kinh phí, dẫn đến việc “làm nghệ thuật để tồn tại” chứ không còn giữ được tính chuẩn mực nghề nghiệp.

Tiến sĩ Trần Thị Minh Thu (Viện Văn hóa – Nghệ thuật – Thể thao và Du lịch Việt Nam) cho rằng, hiện nay trong kịch mục của đa số các đơn vị biểu diễn nghệ thuật sân khấu kịch hát dân tộc đã vắng bóng dần những tích cổ truyền thống. Nhiều đơn vị không diễn được trọn một vở, chỉ còn có thể diễn được một số trích đoạn cổ.

Bên cạnh đó, phần lớn diễn viên trẻ nắm được các làn điệu cổ đặc trưng ngày càng hiếm hoi, dẫn đến số lượng lớn làn điệu cổ ngày càng có nguy cơ mai một. Điều này dẫn đến tình trạng hoạt động bảo tồn sân khấu truyền thống ở nhiều đơn vị chỉ còn là việc sử dụng âm nhạc, làn điệu và một số trích đoạn cổ trong hoạt động biểu diễn.

Theo bà Minh Thu, cơ sở vật chất của các đoàn, nhà hát nghèo nàn, lạc hậu. Nhiều trụ sở làm việc, phòng tập, rạp hát, nhà hát bị xuống cấp trầm trọng, thiết bị, trang âm đầu tư không đồng bộ và tụt hậu. Một số rạp hát được nâng cấp thì bị rơi vào tình trạng không sử dụng được hoặc không tạo điều kiện cho nghệ sĩ phát huy sáng tạo.

Ở một số địa phương có xây dựng rạp hát cho các đoàn biểu diễn, nhưng lại cách xa khu đông dân cư và việc xây dựng mới chỉ chú ý đến vấn đề có được một địa điểm để tạo chỗ trú chân cho đơn vị biểu diễn, mà chưa tính đến những điều kiện thích hợp để phát huy tối đa các thiết chế với tư cách là các trung tâm trình diễn nghệ thuật.

Yếu kém về sức cạnh tranh trên thị trường nghệ thuật. Việc thiếu các tài năng trẻ – ngôi sao, thiếu lực lượng sáng tác dàn dựng riêng cho thể loại, chìm đắm vào đề tài quá khứ và sa đà dựng vở cũ, thiếu những sáng tạo mới. Thiếu những vở diễn mang hơi thở của thời đại và mang tầm vóc thời đại, hoạt động bị nghiệp dư hóa; thiếu kinh phí đầu tư cho quảng bá, marketing, cơ sở vật chất lạc hậu; khán giả trẻ chưa thực sự quan tâm…, đã làm sân khấu Việt Nam truyền thống không hấp dẫn người xem và không thể cạnh tranh với các loại hình giải trí khác trên thị trường công nghiệp văn hóa.

Nghệ thuật tuồng giờ ngày càng chở nên xa lạ với khán giả

Từ góc độ của người làm công tác nghiên cứu và đào tạo nghệ thuật, tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh Vân cho biết, một trong những vấn đề nghiêm trọng nhất của tuồng hiện nay là thiếu tác giả, đạo diễn và nguồn nhân lực biểu diễn. Số lượng nghệ sĩ gạo cội ngày càng giảm, nhiều người đã nghỉ hưu hoặc qua đời, để lại khoảng trống lớn trong việc truyền dạy kỹ thuật hát, trình thức vũ đạo, nghệ thuật hóa trang…

Trong khi đó, các trường đào tạo chính quy như Trường Đại học Sân khấu – Điện ảnh Hà Nội nhiều năm liền không tuyển sinh được lớp tuồng. Các trường văn hóa – nghệ thuật ở địa phương thì không đủ điều kiện mở mã ngành. Công tác đào tạo chủ yếu do các nhà hát tự tổ chức theo mô hình truyền nghề.

Các nghệ sĩ ưu tú, nghệ sĩ nhân dân trực tiếp kèm cặp lớp trẻ, thông qua các hội diễn, liên hoan tài năng trẻ hoặc các lớp tập huấn ngắn hạn. Tuy nhiên, hình thức này thiếu tính hệ thống, thiếu tài liệu giảng dạy chuẩn hóa và không đảm bảo được đội ngũ kế thừa lâu dài. Một số diễn viên trẻ có năng lực, đam mê, từng đạt giải tại các cuộc thi chuyên nghiệp nhưng lại phải bỏ nghề do thu nhập không đủ trang trải cuộc sống.

Để giải quyết bài toán thiếu nghệ sĩ biểu diễn, PGS, TS Đinh Quang Trung (Trường Đại học Sân khấu – Điện ảnh Hà Nội) cho biết, khoa Kịch hát dân tộc (Tuồng – Chèo – Cải lương) nhiều năm nay đang liên kết với các Nhà hát chèo – cải lương để tạo nguồn diễn viên. Các nhà hát tuyển sinh và cử học viên vào trường để học, sau khi tốt nghiệp ra trường là về các nhà hát đều có việc làm luôn. Điều này tạo điều kiện mở cho các học viên sau khi ra trường có việc làm và nhà hát đỡ lo hơn về việc thiếu nguồn nhân lực trẻ.

Giữa guồng quay sôi động của thời đại công nghệ, khi những xu hướng giải trí hiện đại liên tục ra đời, sân khấu tuồng, chèo, cải lương không được chăm chút và làm mới bằng tư duy hiện đại, những giá trị ấy rất dễ bị phủ mờ bởi lớp bụi thời gian. Bảo tồn không có nghĩa là giữ nguyên từng động tác, từng làn điệu, mà là giữ hồn cốt, tinh thần và bản sắc, đồng thời thổi vào đó hơi thở của thời đại mới.

Trần Mỹ Hiền

Nguồn: https://antgct.cand.com.vn/khoa-hoc-van-minh/san-khau-truyen-thong-loay-hoay-voi-bai-toan-bao-ton-i787922/